Giảm thiểu ô nhiễm và phát triển bền vững là những yếu tố chính để ngành thời trang và dệt may Việt Nam duy trì lợi thế cạnh tranh, một chuyên gia nghiên cứu cho hay.
Tập trung vào yếu tố tác động đến môi trường
Tác giả và giảng viên cấp cao ngành Quản trị doanh nghiệp thời trang tại Đại học RMIT Việt Nam, Tiến sĩ Rajkishore Nayak cho biết ngành thời trang và dệt may, đặc biệt ở các nước đang phát triển, hiện đang chật vật với các vấn đề môi trường ở nhiều cấp độ khác nhau.
“Việc dùng công nghệ truyền thống để duy trì sản xuất với chi phí thấp đã tác động khủng khiếp lên môi trường do tiêu thụ quá nhiều năng lượng và nước, tạo ra khí thải nhà kính, và rác thải cũng như nước thải công nghiệp độc hại”, Tiến sĩ Nayak nói. “Đáng kinh ngạc là 20% việc ô nhiễm nước đến từ quá trình xử lý hoá chất như nhuộm hay in hoa văn lên vải vóc”.
Ông cho biết thêm rằng, “vứt bỏ quần áo cũng là vấn nạn lớn với các bãi rác ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Ví dụ như ở Anh, hơn 1,5 triệu tấn rác thải thời trang được chôn lấp trong năm 2016. Vấn nạn này để lại những hậu quả vô cùng to lớn như khí thải nhà kính, thẩm thấu hoá chất vào đất đai, các vấn đề sức khoẻ và ô nhiễm không khí tăng cao. Điều này ảnh hưởng rất lớn lên sức khoẻ con người cũng như các thực thể sống khác”.
Tiến sĩ Nayak đặc biệt nhấn mạnh vào mặt ‘môi trường’ của tam giác bền vững TBL (môi trường, kinh tế và xã hội): “Thời trang và dệt may thực hiện theo cách bền vững có thể xoa dịu trạng thái căng thẳng về hệ sinh thái và xã hội, đồng thời cho người tiêu dùng có ý thức về bền vững được quyền đưa ra lựa chọn đạo đức khi mua những sản phẩm bền vững”.
Tự lực về nguyên liệu thô ở Việt Nam còn thấp
Trong khoảng hai thập kỷ qua, ngành dệt may Việt Nam thể hiện sự phát triển vượt bậc. Lợi thế lao động giá rẻ và các chính sách ưu đãi trong nước giúp đẩy mạnh xuất khẩu dệt may và đưa Việt Nam đứng vào nhóm năm nước xuất khẩu dệt may hàng đầu trên thế giới.
Tiến sĩ Nayak chỉ ra rằng, “khoảng 70% các nhà sản xuất dệt may Việt Nam dùng nguyên liệu thô nhập khẩu. Và gần 50% số nguyên liệu này được dùng trong các sản phẩm sẽ được xuất đi”.
Những nước như Việt Nam, lệ thuộc vào nguồn nguyên liệu thô cũng như các vật tư khác từ Trung Quốc, phải đối mặt với thách thức trong việc duy trì vận hành nhà máy vì đứt gãy chuỗi cung ứng từ việc phong toả các thành phố ở nước này do COVID-19.
Riêng Việt Nam đã bị sụt giảm 6,6% trong xuất khẩu hàng may mặc (so với cùng kỳ hàng năm) còn 10,6 tỉ đô la Mỹ trong bốn tháng đầu năm. Nhập khẩu nguyên liệu thô cùng kỳ cũng giảm 3% còn 5,2 tỉ đô la Mỹ.
Từ nhu cầu mở rộng thị trường xuất khẩu dệt may ngày càng tăng, cũng như Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), Việt Nam sẽ cần phải tự chủ trong sản xuất vải vóc nhằm đáp ứng nhu cầu cũng như thoả mãn nguyên tắc xuất xứ dệt may trong EVFTA.
“EVFTA chắc chắn sẽ đẩy mạnh xuất khẩu may mặc Việt Nam vào thị trường châu Âu”, Tiến sĩ Nayak cho hay. “ Tuy nhiên, thách thức lớn hiện nay là tìm được nguồn vải đúng chất lượng ở Việt Nam. Ngành thời trang và dệt may sẽ cần đẩy mạnh chất lượng vải vóc để tuân thủ nguyên tắc xuất xứ trong EVFTA. Đây được xem là rào cản lớn nhất với các nhà sản xuất dệt may, vì một số nhà sản xuất thời trang hiện nhập vải từ Trung Quốc đại lục và Đài Loan với giá thành rẻ hơn nhiều”.
“Các nhà sản xuất thời trang và dệt may cũng nên chú trọng thực hành sản xuất bền vững để cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Điều này đòi hỏi phải đầu tư vào công nghệ và nguyên liệu bền vững mới”.
Sản xuất xanh
Sản xuất xanh trong chuỗi cung ứng thời trang hiện đang rất được chú ý.
“Các thương hiệu thời trang, nhà sản xuất và bán lẻ đang tăng cường chuẩn bị thích ứng với phương thức sản xuất mới hòng cứu lấy trái đất và con người”, ông nói. “Việc sử dụng những loại sợi vải cấp tiến và bền vững, cũng như các nguyên liệu thô khác (có thể tái tạo và phân huỷ sinh học), là điều vô cùng quan trọng với sản xuất thời trang và dệt may bền vững”.
“Dùng màu tự nhiên để nhuộm, in hoạ tiết và hoàn thiện nhằm có được nhiều tính năng khác nhau trên vải cũng đang được chú ý và khuyến khích. Tương tự với việc tái chế hàng may mặc ở cuối dòng đời sản phẩm và plastic thành nguyên liệu dệt mới”.
Tiết giảm, tái sử dụng và tái chế
Trong thập kỷ qua, khái niệm thời trang nhanh đã làm một cuộc cách mạng trong ngành thời trang, mẫu mã mới được tung ra liên tục mỗi tuần. “Văn hoá vứt bỏ” cũng từ đó mà thành hình vì thời trang bình dân giá rẻ lan tràn khắp nơi cũng như việc ăn nên làm ra của chuỗi các cửa hàng bán lẻ của các nhãn hàng lớn.
“Chôn lấp và đốt rác vẫn là những cách thường dùng để xử lý rác thải thời trang ở các nước đang phát triển”, Tiến sĩ Nayak chia sẻ. “Nguyên nhân có thể đến từ việc thiếu ý thức của người tiêu dùng trong những vấn đề liên quan đến thời trang và dệt may, số lượng doanh nghiệp vận dụng việc tái chế và tái sử dụng còn hạn chế, hệ thống kiểm soát các vấn đề môi trường còn thiếu, sức ép tài chính và thiếu khung pháp lý từ chính phủ”.
“Một số nhãn hàng thời trang như H&M, Zara và Marks & Spencer đã sáng kiến thu nhận quần áo cũ đổi lấy phiếu giảm giá mua hàng, như một nỗ lực giảm lượng rác thải”.
Tuy nhiên, Tiến sĩ Nayak cho biết ý thức cộng đồng về rác thải tiêu dùng vẫn còn kém, giải quyết vấn đề rác thải thời trang và may mặc sẽ cần sự hợp tác giữa trung ương, chính quyền địa phương, khối tư nhân, toàn xã hội cũng như các bên có liên quan khác.
“Quy định và tiêu chuẩn rác thải nên được tuân thủ chặt chẽ, việc củng cố ý thức người tiêu dùng về rác thải sau tiêu dùng nên được truyền bá rộng rãi và chuyển thành hành động, cũng như nên tạo thói quen sử dụng hiệu quả rác thải dệt may để giảm lượng rác, và kiến tạo hệ thống tái chế khép kín nhằm hỗ trợ đối phó với vấn đề này”, ông kết lời.