Dù kiểm soát thành công tác động của COVID-19 lên sức khỏe cộng đồng, Việt Nam đã và đang chịu tổn thất không ít về kinh tế, và có lẽ lực lượng lao động là đối tượng bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất từ đại dịch này.
Tiến sĩ John Walsh, Chủ nhiệm bộ môn Kinh doanh Quốc tế thuộc Đại học RMIT.
Theo số liệu Điều tra lao động và việc làm quý 2/2020 do Tổng cục Thống kê công bố, gần 31 triệu người trong độ tuổi lao động ở Việt Nam phải chịu tác động tiêu cực từ đại dịch COVID-19.
Phần lớn người lao động vẫn có việc làm nhưng thu nhập bị cắt giảm do hoạt động kinh tế giảm sút (ảnh hưởng tới 72% lao động trong khu vực dịch vụ), hay chuỗi cung ứng bị gián đoạn (ảnh hưởng tới 67,8% lao động trong khu vực công nghiệp và xây dựng). Tỉ lệ lao động bị ảnh hưởng trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 25,1%.
Về tổng thể, lực lượng lao động đã giảm xuống còn 53,1 triệu người, thấp hơn 2,4 triệu người so với quý 2/2019. Đây là mức giảm sâu nhất kể từ cuộc điều tra lao động và việc làm bắt đầu vào năm 2011.
Nhiều vấn đề cần giải quyết
Tiến sĩ John Walsh, Chủ nhiệm bộ môn Kinh doanh Quốc tế thuộc Đại học RMIT, nhận định rằng, “mặc dù mọi nhóm lực lượng lao động đều chịu ảnh hưởng ít nhiều, lao động nữ và lao động ở vùng sâu vùng xa là những nhóm chịu tác động lớn nhất vì các hộ gia đình phải cân nhắc xem ai là người lo miếng cơm manh áo và ai sẽ mất việc”.
“Các hộ gia đình ở nông thôn có thể đón nhận một số lao động di cư từ thành thị trở về và sử dụng họ trong các công việc bán thời gian. Nhưng điều này thường đồng nghĩa với việc lao động nữ sẽ mất việc”.
Kết quả điều tra cho thấy, nhìn chung người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao hơn sẽ ít bị ảnh hưởng hơn. Những người phụ thuộc vào kinh tế tiền mặt (chẳng hạn như bán hàng rong) chịu ảnh hưởng nặng nề hơn vì nhiều hoạt động ở thành thị bị hạn chế trong thời gian giãn cách xã hội, và họ không có “sếp” – những người có thể sắp xếp cho họ công việc khác.
Tiến sĩ Walsh chỉ ra rằng hàng triệu người đã phải hủy bỏ kế hoạch đi xuất khẩu lao động sang Nhật Bản, Đài Loan hay Hàn Quốc do việc hạn chế đi lại giữa các quốc gia. Bên cạnh đó, nhiều người Việt từng đi xuất khẩu lao động cũng phải hồi hương do dịch bệnh.
“Người lao động thì mất cơ hội kiếm thu nhập và Việt Nam cũng mất đi lượng kiều hối đáng kể vì đó. Các kỹ năng, năng lực và mạng lưới quan hệ mới mà lẽ ra những người này có thể đem đến cho kinh tế Việt Nam cũng bị ngưng trệ”, Tiến sĩ cho hay.
Theo vị chuyên gia từ RMIT, mức độ mở của nền kinh tế cũng đặt ra một điều khác phải cân nhắc: người Việt đang xuất khẩu nhiều loại hàng hóa mà bản thân họ không tiêu thụ trong nước và mua hàng hóa nhập khẩu mà họ không tự sản xuất được.
“Để giảm nguy cơ đến từ thực trạng này, chính phủ nên cân nhắc điều chỉnh trọng tâm sản xuất để người Việt có thể dùng hàng Việt nhiều hơn”, Tiến sĩ Walsh nhận định. “Các nhà hoạch định chính sách nên tìm cách tăng lương tối thiểu, cũng như nâng cao kỹ năng và trình độ học vấn của người lao động trong nước để có thể hợp với mức lương tăng”.
Bên cạnh đó, Tiến sĩ Walsh cho rằng nên hỗ trợ nhiều hơn cho lao động trong sản xuất nông nghiệp để giảm thiểu nguy cơ tổn thương của nhóm lao động đặc thù này. Ông đề xuất bổ sung kiến thức và nguồn lực cho các dự án hướng tới gia tăng giá trị của các mặt hàng và thương hiệu cụ thể, đồng thời phân phối các sản phẩm này ra các nước trong khu vực và thị trường quốc tế.
Đường dài phía trước
“Hiện tại, những nỗ lực mà Chính phủ Việt Nam có thể triển khai hòng vượt qua suy thoái kinh tế toàn cầu là có hạn”, Tiến sĩ Walsh nhận xét. “Chính phủ đã phải điều chỉnh kế hoạch tăng trưởng GDP và rất có thể phải ‘qua cơn bĩ cực mới tới hồi thái lai’”.
Cũng theo vị chuyên gia này, việc chưa chắc khi nào mới có vắc-xin COVID-19 và khả năng các đợt lây nhiễm mới bùng phát có thể đảo lộn bất cứ kế hoạch nào đã đặt ra.
“Người dân trên khắp thế giới đang rất quan ngại về nguy cơ người dân từ các nước khác (bao gồm lao động nhập cư) nhập cảnh vào nước họ và gây ra các đợt bùng phát dịch bệnh mới.
“Sẽ rất hữu ích nếu như mọi người có thể tìm cách đoàn kết để nắm bắt tình hình, và cùng hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau”, Tiến sĩ Walsh nói.
Nguồn RMIT