Từ khi sinh thành cách đây 180 năm, Truyện Kiều đã trở thành tác phẩm văn học thẩm thấu vào tâm trí người Việt với biết bao dạng thức như ngâm Kiều, bói Kiều, lẩy Kiều…
Truyện Kiều cũng là một tác phẩm văn học kiệt xuất của dân tộc Việt Nam trên diễn đàn văn hóa thế giới. Bản thân tác giả của Truyện Kiều là đại thi hào Nguyễn Du cũng trở thành Danh nhân văn hóa thế giới. Thế nhưng, nhiều ý nghĩa của tác phẩm này đã bị hậu thế hiểu sai đi hoặc làm “méo mó” không chỉ một lần.
Vua Tự Đức “sửa” Truyện Kiều
Nhiều tài liệu viết rằng, sau khi Nguyễn Du viết xong Truyện Kiều, bạn hữu của ông đọc rồi đem khắc bản gỗ và bán tại các cửa hàng sách. Sau đó, người ta thêm, bớt, sửa chữa và lại đem khắc in.
Tượng đài thi hào Nguyễn Du
Chẳng hạn, trong bài tựa Đoạn trường tân thanh, ông Đào Nguyên Phổ, một vị quan nhà Nguyễn, viết rằng: “Mùa Hè năm Mậu Tuất 1898, tôi ở Kinh về vinh quy, có đem quyển Truyện Kiều ấy biếu ông Kiều Oánh Mậu. Ông Kiều Oánh Mậu đã theo bản Kinh ấy mà tham khảo, chép theo một số chữ và còn ghi thêm những câu của bản Kinh khác với bản Phường…”.
Vị quan họ Đào này viết tiếp: “Truyện giai nhân diễn thành giai tác, lại đượm hương trời càng là thêm vẻ, nên chi người ngâm vịnh quý hơn được ngọc bích, tranh nhau sao chép đến nỗi giá giấy đắt như giấy quý Lạc Đô”. Như vậy, Truyện Kiều đã không còn nguyên bản như Nguyễn Du viết. Bởi ngoài nguyên bản của Nguyễn Du còn có bản Phường của Phạm Quý Thích, bản Kinh do vua Tự Đức sửa chữa mà thành và nhiều bản quốc ngữ khác nhau.
Vua Tự Đức “mê” Truyện Kiều. Điều này đã được dân gian vì von: Mê gì? Mê đánh tổ tôm/Mê ngựa hộ bổn, mê nôm Thúy Kiều. Và tuy là người hay bắt bẻ nhưng đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du, Tự Đức cũng phải công nhận đúng là “hàng hàng châu ngọc lời lời gấm thêu”. Có giai thoại rằng, sau khi đọc Truyện Kiều, vua Tự Đức bỗng dưng đùng đùng nổi giận: “Nếu Tố Như (tên tự của Nguyễn Du) mà còn sống, phải nọc nằm xuống đánh cho 30 roi!”.
Bởi khi viết về Từ Hải, Nguyễn Du đã viết: “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!”, đó là hình ảnh của Nguyễn Huệ ngày xưa trong liên tưởng của Tự Đức. Bởi qua thơ, vua Tự Đức thường xét lập trường chính trị của tác giả. Còn một điều nữa là vua Tự Đức tên là Nguyễn Phúc Thì. Nhưng trong Truyện Kiều chỗ nào có chữ “Thì” thường là xấu xa bỉ ổi: “Khi thì lừa đảo, nơi thì ai thương?” (2.291), “Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng” (1.729), “Thôi đà mắc lận thì thôi đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh” (1.157).
Đặc biệt, câu: Thì con người ấy ai cầu làm chi đã được ngắt thành: “Thì/con người ấy/ai cầu làm chi” và được hiểu theo nghĩa: “Một con người như Tự Đức thì chẳng ai cầu làm gì!”. Như vậy là Nguyễn Du đã mắc vào tội vừa phạm húy, vừa phạm thượng, một tội rất nặng trong chế độ phong kiến! Cũng may là Nguyễn Du đã mất và vua Tự Đức cũng cảm phục tài ông nên chỉ tức giận vài câu mà thôi.
Kiều thành Phật bà nghìn tay nghìn mắt?
Tháng 2.2012, vở kịch Nguyễn Du với Kiều do NSND Lan Hương đạo diễn và dàn dựng được công diễn. Nhiều sáng tạo và đột phá của vở kịch được khán giả đón nhận nhưng cái kết với hình ảnh nàng Thúy Kiều hóa thân thành Phật bà nghìn mắt nghìn tay khiến dư luận khó đồng tình.
Thúy Kiều thành Phật bà nghìn tay nghìn mắt
NSND Lan Hương lý giải: “Kiều là người kiếp này tu và kiếp sau sẽ tu tiếp. Ý tứ tôi đưa ra chỉ muốn nói Kiều sẽ đi lên trong vòng tay che chở của Đức Phật bởi ngài là người hiếu thấu trái tim nhân hậu, trong sáng và quá đỗi nhân ái của Kiều”.
Việc Thúy Kiều được thành Phật bà là một điều không thể xảy ra. Đọc kỹ đoạn kết Truyện Kiều chúng ta sẽ thấy rõ hơn về điều này. Đến cuối cùng Kiều vẫn chưa thoát khỏi phong trần. Bởi câu 3.243 – 3.244 của Truyện Kiều cũng là: Bắt phong trần phải phong trần/Cho thanh cao mới được phần thanh cao. Kiều đến cuối cùng vẫn phải sống ở chốn hồng trần, vẫn phải kết hôn với Kim Trọng chứ không thể “thanh y” để trở thành Phật được.
Kể cả đại thi hào Nguyễn Du cũng không muốn Thúy Kiều trở thành tiên thành Phật. Trong câu kế cuối của Truyện Kiều, Nguyễn Du đã viết rằng: “Thiện tâm ở tại lòng ta”. Như vậy Nguyễn Du có muốn Kiều thành Phật đâu!
Chữ “trinh” bị hậu thế hiểu sai
Đề thi của Đại học FPT ngày 8/4/2012 có nội dung để thí sinh bàn về chữ “trinh” xưa và nay với những câu trong Truyện Kiều làm dẫn chứng. Tuy nhiên, sự khập khiễng về logic đã khiến đề thi trở thành câu chuyện “râu ông nọ cắm cằm bà kia” và “đầu voi, đuôi chuột” khá khôi hài. Bởi lẽ chữ “trinh” trong Truyện Kiều không phải là việc “Ngày xưa, nếu cô dâu bị mất trinh thì coi như mất hết, hôn nhân đổ vỡ, người vợ bị đem trả lại” như người ra đề khẳng định.
Cá nhân người viết cũng “thông cảm” cho người ra đề. Bởi cách hiểu của người ra đề được đặt trong bối cảnh xã hội và dân gian còn nặng cách hiểu một chiều. Như: “Gái khôn tránh khỏi đò đưa, Trai khôn tránh khỏi vợ thừa người ta!”.
Nhưng chữ “trinh” của Truyện Kiều lại là quan niệm riêng của Nguyễn Du thông sự bày tỏ quan điểm của các nhân vật. Đặc biệt là quan điểm của hai nhân vật Thúy Kiều và Kim Trọng. Với Thúy Kiều, lúc yêu Kim Trọng, nàng đã dám trèo tường sang người yêu để gặp người yêu nhưng vẫn:
“Thưa rằng đừng lấy làm chơi,
…
Đã cho vào bậc Bố-kinh,
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.
Ra tuồng trên Bộc trong dâu,
Thì con người ấy ai cầu làm chi!”.
(câu 499 – 508).
Sau này, mặc dù bị sa vào chốn bùn nhơ nhưng cuộc đời đó không do ý muốn của Thúy Kiều. Và khi trở về với gia đình sau 15 năm lưu lạc hồng trần thì món quà tiết hạnh cao quý còn lại mà nàng muốn dâng hiến cho Kim Trọng để chu toàn cho cả hai lại là chữ “hiếu” và chữ “tình”:
“Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng
Hoa thơm phong nhị trăng vòng tròn gương
Chữ trinh đáng giá nghìn vàng
Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa”.
(câu 3.093 – 3.096).
Vì thế, đối với Kim Trọng thì chữ “trinh” của Kiều chính là:
“Xưa nay trong đạo đàn bà,
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường.
Có khi biến có khi thường,
Có quyền nào phải một đường chấp kinh.
Như nàng lấy hiếu làm trinh,
Bụi nào cho đục được mình ấy vay?”.
và
“Gương trong chẳng chút bụi trần,
Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm”.
(câu 3.115 – 3.122).
Như vậy, thi hào Nguyễn Du, qua vai trò Kim Trọng, một đại diện điển hình của chế độ phụ quyền phong kiến (nho sĩ, quan lại) đã làm một cuộc cách mạng về tư tưởng và đem lại giá trị sống cho phụ nữ, không còn xem việc trai tơ lấy gái mất “cái màng trinh” là xấu nữa.
Chữ “trinh” của người xưa vì thế cũng không hẳn là còn trinh theo nghĩa xác thịt như Đại học FPT đã nhầm lẫn trong đề Văn ngày 8/4/2012.
Truyện Kiều còn, tiếng ta còn…
Thời gian gần đây, chuyện ông Đỗ Minh Xuân, một kỹ sư, đã sửa hơn 1.000 chỗ trong 3.254 câu Truyện Kiều, nghĩa là đã làm méo mó đi 1/3 kiệt tác của đại thi hào Nguyễn Du đã khiến dư luận bàng hoàng. Lý do ông Xuân đưa ra là người đọc Truyện Kiều ngày nay có rào cản về điển tích, từ Hán, từ cổ, từ địa phương. Trong khi đó chữ nghĩa của Truyện Kiều lại rườm rà, trùng lặp, không hay, thiếu logic, trái văn cảnh… nên ông sửa lại cho phù hợp (?).
Nguyễn Du tự nhận về “đứa con tinh thần” của mình là những “lời quê”, “chắp nhặt”, “dông dài”, chỉ là để “mua vui”. Nhưng 3.255 câu Kiều đã thành công vượt bậc hơn cả nguyên bản của nó từ Trung Quốc.
Truyện Kiều cũng đã góp phần đưa tác giả của nó thành một đại thi hào của thế giới. “Mua vui” như vậy mới đáng mặt bậc thi sĩ nước Nam. Chỉ mong sao hậu thế về sau đừng có ai như ông Đỗ Minh Xuân làm “méo mó” thêm Truyện Kiều nữa. Bởi những việc làm này rõ ràng là hạ thấp giá trị tác phẩm văn học đã được xem là kiệt xuất của dân tộc Việt Nam trên bản đồ định vị giá trị văn hóa của thế giới.