Tiến sĩ Chu Thanh Tuấn, giảng viên Kinh tế tại Đại học RMIT, nhận định về tình hình lạm phát 5 tháng đầu năm và đưa ra khuyến nghị kiểm soát lạm phát trong các tháng còn lại của năm 2021.
Chỉ số lạm phát các tháng đầu năm 2021
Theo số liệu do Tổng cục Thống kê (TCTK) công bố mới đây, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 5 tháng đầu năm 2021 tăng 1,29% so với cùng kỳ năm trước và là mức tăng thấp nhất kể từ năm 2016. Chỉ số lạm phát cơ bản bình quân trong 5 tháng đầu năm 2021 tăng 0,82% so với cùng kỳ năm 2020. Mức lạm phát cơ bản tháng 5 và 5 tháng đầu năm 2021 đều là mức thấp nhất trong 5 năm trở lại đây.
Tuy nhiên, nếu nhìn kĩ hơn vào báo cáo của TCTK thì có thể thấy CPI tháng 4 so với tháng trước giảm 0,04%, nhưng chỉ sau một tháng con số này đã tăng lên 0,15% do giá nguyên, vật liệu đầu vào cùng với giá xăng dầu tăng.
Trong những tháng đầu năm, tình hình trong nước chưa bị tác động nhiều, sức cầu còn yếu do ảnh hưởng của dịch COVID-19 nên CPI của 5 tháng chưa tăng mạnh. Bên cạnh đó, vòng quay tiền chậm lại trong nền kinh tế thực cũng là một phần nguyên nhân lạm phát chưa tăng nhanh trong thời gian qua.
Tình hình lạm phát trong thời gian tới
Nhiều khả năng lạm phát sẽ tăng từ quý II và sẽ tăng cao hơn trong nửa cuối năm nay. Lý do bởi vì giá xăng dầu, giá vật liệu xây dựng và thực phẩm cũng đã bắt đầu tăng và có khả năng kéo dài do tác động từ hiện tượng nhập khẩu lạm phát từ thế giới.
Chỉ trong vòng 15 ngày từ 27/04-12/05, Liên bộ Tài chính – Công thương đã quyết định tăng giá xăng dầu đến hai lần. Ngân hàng đầu tư Goldman Sachs (Mỹ) dự báo giá xăng dầu có thể đạt 80 USD vào cuối năm và điều này có thể gây áp lực lên giá xăng dầu của Việt Nam. Bên cạnh đó, giá sắt thép trong nước tăng 40 – 50% kéo theo giá vật liệu xây dựng khác như cát, xi măng, gạch đá,… cũng tăng theo, đẩy nguy cơ giá nhà tăng trong những tháng cuối năm và gây áp lực lên lạm phát. Tình hình dịch bệnh COVID-19 vẫn diễn ra phức tạp và chưa kiểm soát được hoàn toàn cũng gây ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo rủi ro đứt gãy chuỗi cung ứng và có thể gây áp lực lên giá cả và lạm phát.
Một số chuyên gia kinh tế cho rằng ở Việt Nam, lạm phát do yếu tố giá đáng lo ngại hơn yếu tố tiền tệ. Điều này có thể chưa hoàn toàn đúng. Qua việc Ngân hàng Nhà nước cho phép một loạt ngân hàng tăng vốn điều lệ trong thời gian qua và sắp tới, cũng như việc nới lỏng tín dụng cá nhân (Nghị định số 21/2021 của Chính phủ về việc cho phép người dân được thế chấp quyền sử dụng đất), hay như việc nới lỏng room tăng trưởng tín dụng của 6 ngân hàng cổ phần, có thể thấy được Chính phủ đang có xu hướng nới lỏng chính sách tiền tệ để tăng trưởng kinh tế. Việc này có thể dẫn đến lạm phát tăng cao hơn trong những quý sắp tới. Bên cạnh đó, việc Chính phủ hỗ trợ doanh nghiệp qua các gói hỗ trợ và lãi suất thấp có thể dẫn đến dòng tiền rẻ lại đang chảy vào thị trường bất động sản, chứng khoán, tiền kỹ thuật số… Hiện tượng này có thể sẽ trở thành tác nhân gây ra nguy cơ lạm phát.
Rủi ro lạm phát đến từ nền kinh tế toàn cầu
Bộ Lao động của Mỹ ngày 12/05 công bố CPI của nước này tăng 4,2% trong tháng 4 so với cùng kỳ năm ngoái, mức tăng mạnh nhất kể từ tháng 9/2008. Trong khi đó, chỉ số lạm phát của nước Anh cũng tăng lên 1,5% trong tháng 4 từ mức 0,7% của tháng trước theo số liệu của Văn phòng Thống kê Vương quốc Anh vào ngày 19/05. Đây là mức cao nhất kể từ tháng 3/2020. Tỷ lệ lạm phát tăng không chỉ ở hai nước kể trên mà còn xuất hiện ở nhiều nền kinh tế khác trên thế giới.
Theo các chuyên gia kinh tế, rất có thể nền kinh tế thế giới đang rơi vào tình trạng cạn kiệt về mọi thứ và dẫn đến một chu kì xác lập giá hàng hóa mới cao hơn rất nhiều trước đại dịch. Giá đồng, quặng, sắt và thép đều tăng trong những tháng gần đây do nguồn cung hạn chế trước nhu cầu mạnh mẽ từ Mỹ và Trung Quốc, hai nền kinh tế lớn nhất thế giới đang hồi phục sau đại dịch.
Nhiều nhà sản xuất trong các lĩnh vực như sản xuất nệm, ô tô, giấy và nhôm đang mua nhiều vật liệu hơn mức họ cần với tốc độ chóng mặt, do nhu cầu tiêu dùng đang phục hồi và nỗi sợ hãi ban đầu về cạn kiệt đang được xoa dịu. Hoạt động mua và tích trữ của doanh nghiệp đang đẩy chuỗi cung ứng đến bờ vực bị thu hẹp. Tình trạng thiếu hụt, tắc nghẽn giao thông vận tải và giá cả tăng vọt gần đạt mức cao nhất trong nhiều năm, làm dấy lên lo ngại rằng nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng sẽ gây ra lạm phát. Đồng, quặng sắt, thép, ngô, cà phê, lúa mì, đậu nành, gỗ xẻ, chất bán dẫn, nhựa và bìa cứng để đóng gói tăng mạnh trong thời gian dài. Chỉ số Bloomberg Commodity Spot Index (tổng hợp giá của 23 hàng hóa nguyên liệu đầu vào giao ngay) đã đạt mức kỉ lục kể từ năm 2011 vào đầu tháng 5. Chỉ số Baltic Dry Index (chỉ số vận chuyển thương mại) đã tăng lên mức cao nhất trong hơn một thập kỷ, tăng hơn 700% kể từ tháng 4/2020, phản ánh chi phí vận tải đường biển tăng rất mạnh trong một năm trở lại đây.
Bên cạnh đó, giá cả tăng còn phản ánh nhu cầu tiêu dùng tăng mạnh do nền kinh tế mở cửa trở lại ở các nước như Mỹ, Anh và châu Âu dựa trên những thành công bước đầu của chiến dịch tiêm chủng ngừa COVID-19. Hàng nghìn tỷ USD mà chính phủ Mỹ đã bơm vào nền kinh tế cộng với số tiết kiệm thặng dư khổng lồ của người dân sẽ làm sức cầu bị nén trong thời gian dài dần bung ra, trong khi nút thắt về nguồn cung và lao động chưa thể đáp ứng và phục hồi kịp.
Mặc dù một số quan chức cấp cao của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cho rằng CPI tăng cao chỉ là hiện tượng tạm thời, các chuyên gia kinh tế nhận định rằng các lực đẩy tăng giá chưa cho thấy những dấu hiệu giảm nhiệt trong ngắn hạn, các đoạn thắt đối với đầu cung hiện tại có thể kéo dài hơn dự đoán. Những điều này có thể làm cho việc lạm phát tăng mạnh trong tháng 4 ở nhiều nước không chỉ là tạm thời.
Việt Nam là quốc gia có độ mở nền kinh tế lớn. Như đã nói ở trên, Việt Nam sẽ không tránh khỏi tác động của việc giá cả nguyên vật liệu đầu vào từ thế giới tăng. Điều này đã và đang thể hiện thông qua giá của một số hàng hóa nội địa tăng lên. Từ đó lạm phát sẽ bị đẩy lên trong năm nay.
Tuy nhiên, Việt Nam có một số điểm đặc thù khác với tình hình hiện tại trên thế giới. Đầu tiên, Việt Nam khó có khả năng bùng nổ tiêu dùng nội địa do dịch bệch đang được giữ trong tầm kiểm soát. Khi dịch bệnh được khoanh vùng và khống chế cục bộ, thì khả năng người dân chi tiêu mạnh mẽ như các nước Mỹ, Anh và châu Âu là khó xảy ra. Bên cạnh đó, tỷ lệ tiêm vaccine của Việt Nam so với các nước trên thế giới là khá thấp cùng với tình hình dịch bệnh COVID-19 vẫn diễn biến phức tạp, dẫn đến khả năng mở cửa lại các dịch vụ du lịch và hàng không với bên ngoài còn bỏ ngỏ. Cần biết rằng các dich vụ này cũng là tác nhân tạo nên chỉ số lạm phát tăng cao ở các nước Mỹ và Anh. Bên cạnh đó, gói cứu trợ an sinh xã hội 62 nghìn tỷ đồng của Chính phủ cho người lao động cũng chưa tạo được sức bật lớn để tạo ra một sức ép lớn lên tổng cầu dẫn đến lạm phát tăng cao.
Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Tiến sĩ Tuấn
Theo tôi mục tiêu lạm phát dưới 4% mà Chính phủ đặt ra cho năm nay vẫn nằm trong tầm kiểm soát. Chính phủ cần quan tâm cả yếu tố giá cả và yếu tố tiền tệ. Một giải pháp giảm bớt áp lực lạm phát về giá đó là Chính phủ có thể thông qua các quỹ bình ổn giá và kỉ luật tài khóa để hạn chế tăng giá một số mặt hàng thiết yếu và lương thực. Trong khi đó, lãi suất thấp và các gói chính sách hỗ trợ doanh nghiệp cũng giúp thúc đẩy nền kinh tế.
Tuy nhiên, Chính phủ phải kiểm soát chính sách tiền tệ một cách cẩn thận và nghiêm ngặt hơn. Lạm phát tăng cao bởi yếu tố tiền tệ sẽ khó kiểm soát hơn do yếu tố giá cả. Việc lạm phát tăng cao ở Mỹ hay các nước châu Âu khiến các ngân hàng trung ương khó duy trì được lập trường chính sách tiền tệ nới lỏng. Và khi hãm phanh các van bơm tiền đó, các nước trên cũng chưa dự báo được mức độ ảnh hưởng của nó lên nền kinh tế sẽ như thế nào. Do đó, Chính phủ nên đảm bảo nguồn cung tiền được đi vào nền kinh tế thực và tránh dòng tiền rẻ lại chảy vào bất động sản, chứng khoán hay tiền kỹ thuật số.
Trong tình hình dịch bệnh hiện nay, phát triển kinh tế bền vững là vô cùng cần thiết. Mục tiêu kiểm soát lạm phát quan trọng nhưng chúng ta cũng phải ưu tiên mục tiêu thúc đẩy nền kinh tế. Đó cũng chính là cách các nước trên thế giới đang thực hiện. Mỹ, Anh và châu Âu tạm cho phép lạm phát tăng cao trong ngắn hạn để thúc đẩy nền kinh tế trước khi thực hiện các biện pháp kiểm soát.
Tóm lại, lạm phát sắp tới có thể tăng, tuy nhiên có thể chỉ trong ngắn hạn do nền kinh tế trong nước và thế giới phục hồi sau dịch. Chính phủ cần có chính sách nhất quán, xây dựng nền tảng vĩ mô và tỷ giá cơ bản ổn định, nâng cao hiệu quả hơn nữa trong phối hợp chính sách tiền tệ, tài khóa và giá cả. Và đặc biệt là kiểm soát dịch bệnh COVID-19 thành công thông qua việc đẩy nhanh quá trình tiêm vaccine để đưa nền kinh tế phát triển bền vững.
Theo Đại học RMIT