Nghe qua thì rất “vi diệu”, nhưng nếu các ý tưởng này được thực hiện, tương lai của Trái đất từ u ám sẽ chuyển thành tối như đêm 30 luôn.
Các số liệu thống kê hiện tại cho thấy Trái đất đang trải qua thời kỳ tăng nhiệt độ nhanh nhất trong lịch sử, mà nguyên nhân chính là do con người. Nhiệt độ tăng dẫn đến nhiều ảnh hưởng tiêu cực như mực nước biển dâng cao, thời tiết cực đoan xảy ra thường xuyên hơn, bùng phát các loài kí sinh truyền bệnh….
Để hạn chế tác hại của sự nóng lên toàn cầu, hàng loạt giải pháp đã được đưa ra, trong đó phần lớn tập trung vào việc cắt giảm khí thải nhà kính. Tuy vậy, giải pháp này có một nhược điểm là yêu cầu sự hợp tác của toàn thế giới, sự thực là vấn đề này… hơi khó giải quyết.
Vì thế, một số khác đề xuất ý tưởng dùng công nghệ tác động trực tiếp vào khí hậu. Đây là điều về lý thuyết có thể làm, và ưu điểm là làm nhiệt độ Trái đất hạ xuống nhanh chóng.
Tuy nhiên, thật may mắn khi đến giờ chúng không thành hiện thực bởi tác dụng phụ để lại vô cùng đáng sợ.
1. Tạo thêm mây trắng trên đại dương
So với một mặt biển trống màu xanh thẳm, thì mặt biển có mây trắng bao phủ sẽ phản xạ lại nhiều ánh sáng Mặt trời hơn vào không gian.
Điều đó có nghĩa càng nhiều mây trên các đại dương, vốn chiếm 3/4 diện tích bề mặt Trái đất, thì năng lượng Trái đất hấp thu từ Mặt trời càng ít hơn, và nhiệt độ theo đó giảm xuống.
Ý tưởng tạo mây trên đại dương được đề xuất bởi giáo sư Stephen Salter tại ĐH Edinburgh (Scotland). Ông kiến nghị thiết kế các cỗ máy khổng lồ vận hành bằng năng lượng gió, có nhiệm vụ phun nước biển liên tục vào không khí để kích thích sự hình thành mây.
Theo dự đoán của Salter, cần khoảng 1000 cỗ máy phun nước để tạo đủ lượng mây có thể cân bằng nhiệt độ từ sự nóng lên toàn cầu.
Việc thực hiện ý tưởng không quá khó, tuy nhiên không thể lường hết các biến đổi có thể xảy ra do sự tương tác trên Trái đất vô cùng phức tạp.
Trái đất có thể lạnh đi, và ảnh hưởng tiêu cực cũng sẽ không thua kém gì. Độ ẩm dư thừa trong không khí có thể thay đổi các mô hình thời tiết, gây rối loạn chuỗi thức ăn trong đại dương, cũng như xáo trộn hành vi của nhiều loài chim biển vốn sống phụ thuộc vào những luồng gió và hải lưu.
Việc đại dương nhiều mây hơn có thể dẫn đến thảm họa
2. Phun lưu huỳnh vào tầng bình lưu
Sol khí được định nghĩa là các hạt chất rắn hay giọt chất lỏng nhỏ li ti trôi nổi trong không khí. Hợp chất chứa lưu huỳnh SO2 khi tồn tại trong khí quyển sẽ hình thành sol khí sulphate có tác dụng phản xạ lại phần nhỏ ánh sáng Mặt trời.
Hiệu ứng này được chứng minh sau các trận phun trào núi lửa. Đặc biệt, vụ phun trào của núi Pinatubo tại Philippines vào năm 1991 đã giải phóng lượng SO2 lớn đến mức làm nhiệt độ trung bình toàn cầu giảm xuống 0,6 độ C trong 2 năm sau đó.
Tương tự với tạo mây, việc bơm lượng lớn SO2 vào khí quyển cũng ngăn sự nóng lên toàn cầu bằng cách giảm nhiệt lượng hấp thu từ Mặt trời.
Số hóa chất này cần được bơm vào tầng bình lưu để tránh gây hiện tượng mưa axit, khi sulphate hòa tan với hơi nước ở tầng đối lưu thấp hơn.
Kĩ thuật để thực hiện hoàn toàn có sẵn trong hiện tại, con người có thể dùng máy bay, pháo binh, hay thậm chí bóng bay để đưa SO2 vào tầng bình lưu.
Nhược điểm của ý tưởng là sulphate trong tầng bình lưu có thể làm suy giảm lớp ozone, khiến lượng tia cực tím độc hại chiếu xuống Trái đất nhiều hơn.
Con người sẽ phải phóng tên lửa để đưa SO2 lên tầng bình lưu
Ngoài ra, không gì đảm bảo hàng triệu tấn sulphate sẽ luôn tồn tại trên tầng bình lưu, mà không có một lượng trôi xuống tầng đối lưu gây mưa axit.
Và dù chỉ lơ lửng ở tầng bình lưu, thì sulphate cũng không đứng yên mà được thổi đi khắp nơi. Lúc đó một số vùng có thể trở nên quá lạnh, trong khi các vùng khác thì vẫn nóng lên.
3. Che nắng Trái đất
Kế hoạch được nhà thiên văn học người Anh Roger Angel đề ra theo đúng nghĩa đen – chế tạo một nghìn tỉ đĩa thủy tinh mỏng, sau đó phóng lên không gian đến vị trí L1 – điểm cân bằng lực hấp dẫn giữa Trái đất và Mặt trời. Những chiếc đĩa sẽ trải rộng thành một chiếc ô khổng lồ chắn bớt khoảng 2% ánh sáng Mặt trời chiếu tới Trái đất.
Minh họa phương pháp của Roger Angel
Trình độ khoa học ngày nay của con người có thể biến ý tưởng trở thành hiện thực. Thế nhưng, cái giá phải trả cho ý tưởng này thì… siêu đắt – lên tới 4.000 tỉ USD – tức là gấp gần 100 lần số tiền mặt có trong ngân sách của Hoa Kỳ.
Đồng thời, ánh sáng Mặt trời không chỉ tạo ra nhiệt năng mà còn nhiều tác dụng khác, do đó hệ sinh thái sẽ biến đổi ra sao khi ánh sáng trên toàn hành tinh giảm đi là điều rất khó dự đoán.
Việc chắn sáng có vô tình kích hoạt thêm một đợt Đại tuyệt chủng hay Băng hà mới không, chẳng ai biết trước được.
4. Bón sắt vào đại dương
Chúng ta đã được học, cây cối giúp hấp thu CO2, loại khí nhà kính chủ yếu được con người thải ra. Tuy nhiên, nguồn hấp thu CO2 lớn nhất trên Trái đất lại không phải cây cối mà là các vi tảo ở đại dương. Hơn nữa, vi tảo này lại phát triển nhanh hơn nhiều so với thực vật đa bào.
Các vi tảo trong đại dương mới là nguồn hấp thụ CO2 hiệu quả nhất
Giảm CO2 sẽ giảm nhiệt độ toàn cầu , và một số nhà khoa học đã đưa ra ý tưởng giảm theo kiểu… nước rút, bằng cách đổ hàng trăm tấn ion sắt vào đại dương.
Tất cả nhằm kích thích sự sinh sôi của vi tảo. Càng nhiều tảo, càng nhiều CO2 được hấp thu và chuyển thành carbon hữu cơ. Sau đó, khi tảo chết đi lắng xuống biển, carbon được khóa chặt dưới dạng dầu mỏ.
Ý tưởng nghe ấn tượng quá đúng không – vừa giúp giảm được nhà kính lại còn tích trữ dầu mỏ cho tương lai. Thế nhưng, nguy cơ tiềm ẩn không hề nhỏ.
Thực vật phù du như tảo vốn nằm ở đầu chuỗi thức ăn, được tiêu thụ bởi các sinh vật lớn hơn. Việc tạo ra một lượng thức ăn khổng lồ gây tác động đến đời sống biển như thế nào chưa được hiểu rõ. Liệu tất các loài cá và động vật biển khác cũng sẽ phát triển mạnh theo, hay một số phát triển mạnh còn số khác bị tuyệt diệt?!
Một ảnh hưởng xấu hiển hiện của việc tảo sinh sôi quá nhanh đó là hiện tượng tảo nở hoa – còn gọi là thủy triều đỏ. Khi hiện tượng xảy ra, một lượng cực lớn tảo hút cạn oxy và thải chất độc ra vùng nước xung quanh, giết chết bất kỳ động vật nào bơi gần đó.
Dù đã có một thí nghiệm “bón” sắt thực hiện ở vùng biển gần Canada vào năm 2013, khiến một năm sau lượng cá hồi di cư tăng đột biến, thì cho đến nay đa phần các nhà khoa học vẫn ủng hộ việc nghiên cứu ý tưởng trên một cách thật cẩn trọng.
Nguồn: Cracked